TÔN NHẬT QUANG

EBOOK MỚI MỖI NGÀY

Mỗi ngày một chương sách

Kindle, Heineiken, Gillet, DHL, FEDEX,

NGUYỄN HOÀNG VÀ BƯỚC ĐẦU TIẾN VÀO VÙNG NAM TRUNG BỘ

TS. Nguyễn Thị Hậu*

Khi nói đến lịch sử v ương quốc Chămpa, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng vương quốc Chămpa không phải là một nhà nước thống nhất chặt chẽ và lâu dài, mà là một liên minh của các tiểu vương quốc theo từng tiểu vùng địa – văn hóa, gọi là mandala. Như vậy với thực thể vùng đất Bình Định xưa thuộc tiểu vương quốc Vijaya, vùng Phú Yên xưa – Môn Độc quốc và Panduranga – Phan Rang là Bôn Đà Lang, thì việc vua Lê Thánh Tông chấp nhận sự tồn tại của nước Hoa Anh (vùng đất Phú Yên) song song với sự tồn tại của tiểu vương quốc phía nam đèo Đại Lãnh của Bô Trì Trì là điều dễ hiểu. Đây là việc sắp đặt lại (theo hướng có lợi cho Đại Việt) một mô hình địa – chính trị đã có sẵn trong lịch sử vương quốc Chămpa nói chung và vùng đất phía nam Chămpa nói riêng. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận rằng, sự tồn tại của các tiểu quốc trên luôn chịu ảnh hưởng và không thể tách rời mối quan hệ vô cùng chặt chẽ – ở một mức độ nào đó là sự phụ thuộc – vào Đại Việt, vào tình hình chính trị cũng như các chính sách của Đại Việt đối với các tiểu quốc này. Như vậy, để tìm hiểu về vùng đất Phú Yên giai đoạn này cũng là để phác dựng lại nước Hoa Anh trong lịch sử, trước hết cần phải tìm hiểu tình hình Đại Việt khoảng từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVII.

Sau cuộc Nam chinh năm 1470 – 1471, vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm lại đặt làm đạo Thừa tuyên Quảng Nam, cộng trong nước là 13 Thừa tuyên, danh từ Quảng Nam có từ lúc ấy. Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thống lãnh 3 phủ, 9 huyện, địa bàn từ Quảng Nam đến hết Bình Định ngày nay. Nhà vua còn tổ chức lại việc cai trị các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đã có từ trước, cho người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm Đồng Tri phủ Đại Chiêm. Với ý định lập cương giới Đại Việt ở đèo Cù Mông – sau khi dựng nên hai quốc gia đệm ở phương nam – đã hình thành dưới thời vua Lê Thánh Tông, lại tiếp tục được củng cố dưới triều các vua sau đó của nhà Lê. Sau cuộc Nam chinh trở về hẳn việc chiêu mộ nhân dân vào vùng đất mới tiếp tục diễn ra và ngày càng mạnh mẽ. Vùng đất mới là Phủ Hoài Nhân tức tỉnh Bình Định ngày nay là vùng đất rộng rãi, đồng bằng phì nhiêu, có cửa biển lớn… có sức hấp dẫn đối với lưu dân, trong đó có nhiều binh lính tham gia chiến tranh đã ở lại vùng đất mới và mang theo gia đình của họ, cũng như thuận tiện cho việc lưu đày đến nơi xa xôi những tù nhân, tội phạm của nhà nước. Những cuộc di dân mà triều đình xuống chiếu chiêu mộ khuyến khích khai thác đất mới với quy mô lớn có vai trò quan trọng của nhiều gia đình dòng họ. Truyền thống của người Việt trong việc duy trì tính chất đại gia đình đã đóng một vai trò quan trọng trong việc di dân vào phía Nam, truyền thống này khuyến khích di dân đi theo từng nhóm cùng huyết thống hay họ tộc. Ngoài ra còn có cuộc di cư của những người nghèo khó muốn tìm chỗ làm ăn dễ dàng, hay can tội phải trốn tránh, bất mãn hay vì một lý do nào đấy không thể sống tại quê cũ, khi lẻ tẻ một vài gia đình, khi từng nhóm nhỏ vẫn liên tục và âm thầm diễn ra. Các cuộc di dân từ sau năm 1471 khá thuận lợi, người Việt vào vùng đất mới sống yên ổn vì không còn lo sợ xung đột giữa Đại Việt và Chămpa. Mục đích của những người dân Việt khi di cư đến vùng đất mới là nhằm tìm kiếm đất đai để cày cấy làm ăn chứ không phải để bắt tù binh nô lệ hay cướp bóc của cải. Nhờ vậy mà họ sớm hòa nhập với cộng đồng cư dân bản địa, lập nên làng xóm mới, cùng lao động và hòa hợp trong những sinh hoạt văn hóa. Từ đó, phía bắc đèo Cù Mông, thuộc thừa tuyên Quảng Nam chính thức là đất đai của Đại Việt còn từ phía nam đèo Cù Mông “thuộc man lèo” – một tiểu quốc của người dân tộc khác người Việt – chính là nước Hoa Anh.

* Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
Theo Đại Việt sử ký toàn thư Phủ biên tạp lục, tình hình vùng đất mới trong thời kỳ nửa sau thế kỷ XV như sau:

Tháng t ư năm thứ 12 niên hiệu Hồng Đức (Tân Sửu, 1481), nhà vua xét vì tại Quảng Nam không có thuyền, nên hàng năm giang thuế quân dân thường bị tổn thất. Vì vậy Ngài ban sắc từ nay trở đi, hễ mỗi khi tới kỳ nạp thuế, Ngài cho phép Ty Thừa tuyên Quảng Nam đưa văn thư tới Tam ty Thuận Hóa, đồng thời giao phó các hạng vật thuế cho Tam ty Thuận Hóa ấy, để nơi ấy sai phái người chuyển đệ lên cấp trên đăng nạp.

Tháng m ười năm thứ 19 niên hiệu Hồng Đức (Mậu Thân, 1488), nhà vua hạ lệnh cho viên tham chánh Quảng Nam là Phạm Bá Tôn rằng: hễ quân sĩ hay nhân dân sinh con trai từ 15 tuổi trở lên mà có vẻ thông minh hiếu học, thì đến ngày thi Hương, hội đồng phải lực chọn lấy sinh viên sung vào danh sách sinh đồ trong phủ.

Tháng t ư năm thứ 21 niên hiệu Hồng Đức (Canh Tuất, 1490), nhà vua định lại bản đồ trong toàn quốc gồm 13 xứ thừa tuyên… Từ đây trở về sau đời đời phải noi theo và gìn giữ như vậy… Chỉ có hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam thì họ Nguyễn nối đời nhau làm chức Trấn thủ, và trong thời gian ấy, họ khai thác thêm nhiều.

Nh ưng từ đầu thế kỷ XVI Đại Việt có những biến đổi quan trọng, tình hình đã diễn biến theo một chiều hướng khác hẳn và dẫn đến sự thay đổi căn bản bộ mặt của đất nước.

Năm 1527, nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê, rồi đến việc họ Trịnh nắm quyền bính, họ Nguyễn bị nghi kỵ và nguy cơ bị họ Trịnh hãm hại. Năm 1558, Đoan quận công Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hóa (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay), tiếp đó vào năm 1570 xin được giao thêm quyền trấn thủ Quảng Nam (từ Quảng Nam đến Bình Định ngày nay). Từ đó họ Nguyễn ở phía nam bắt đầu ra sức xây dựng lực lượng của mình, biến miền Nam thành giang sơn cát cứ riêng biệt, lập thế đối trọng với chúa Trịnh ở phía Bắc. Rồi sang thế kỷ XVII là cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Đàng Trong d ưới thời Đoan Quận công Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) tương đối yên ổn do kinh tế khá phát triển và cũng nhờ vào sự khôn khéo của Nguyễn Hoàng với chính quyền Đàng Ngoài (vua Lê, chúa Trịnh và kể cả với nhà Mạc). Thuận Quảng lúc bấy giờ đất đai mới mở mang nhưng dân cư còn ít chưa đáp ứng nhu cầu khai khẩn – một nhu cầu bức thiết của Chúa Nguyễn để thực hiện được mục đích cát cứ. Tuy trong dân cư có cả những thành phần rất phức tạp nhưng trong vài mươi năm Đoan Quận công đã “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, nhẹ xâu thuế, dân chúng vui, phục, thường gọi là chúa Tiên”. Một mặt Chúa Nguyễn phải đối phó với quân nhà Mạc và cả chúa Trịnh bằng các cuộc chiến và thủ đoạn chính trị khôn khéo, mặt khác vẫn tiến hành công cuộc phát triển kinh tế Đàng Trong bằng nông nghiệp, thương nghiệp và nhiều ngành sản xuất khác… Để làm được điều đó chắc hẳn chính quyền Chúa Nguyễn phải có sự ứng xử mềm dẻo với tiểu quốc của người “man lèo” ở biên giới phía nam để yên ổn mà rảnh tay chống đỡ với phía bắc. Rõ ràng thời gian này mối bận tâm của chính quyền Chúa Nguyễn là phía bắc với những quan hệ ràng buộc và những mưu đồ chính trị của các thế lực Lê – Mạc – Trịnh – Nguyễn. Đấy cũng là một nguyên nhân giải thích vì sao sử nhà Nguyễn ghi chép về giai đoạn này của Nguyễn Hoàng ở Thuận – Quảng và hoạt động của ông với nhà Lê ở phía bắc khá kỹ mà hầu như không ghi chép gì về các tiểu quốc phía nam, trong đó có nước Hoa Anh. Mặt khác có thể suy đoán rằng, do tình hình nội bộ Đại Việt như vậy nên tại ba tiểu quốc này cư dân Chăm và các tộc người khác tiếp tục cuộc sống tương đối yên ổn, hầu như sử sách không ghi chép một sự kiện lớn nào xảy ra cho đến cuối thế kỷ XVI, khi mà việc thiết lập vương quyền cát cứ của Chúa Nguyễn đã rõ ràng. Từ lúc đó đối với các tiểu quốc Hoa Anh và Chiêm Thành, chính quyền Chúa Nguyễn bắt đầu có những động thái khác nhằm từng bước tiến về phía nam. Nhưng trước khi những sự kiện đó xảy ra, nước Hoa Anh đã tồn tại như thế nào?

Địa bàn n ước Hoa Anh về đại thể nằm giữa đèo Cù Mông và Đèo Cả – một trong những tiểu vùng địa – lịch sử của vương quốc Chămpa, với cấu trúc 3 yếu tố cơ bản theo truyền thống một “tiểu quốc” Chămpa: Dòng sông thiêng là sông Đà Rằng (sông Ba) có ngọn núi Thiêng núi Đá Bia – Linga-parvatha (Tối linh Dương Vật), Thành Hồ, cảng thị Đông Phước.

Sông Đà Rằng với lợi thế là con sông duy nhất ở miền Trung thông lên đến Tây Nguyên có một vai trò rất quan trọng đối với người Chăm. Sử thời Nguyễn cho biết, nhà Nguyễn đã từng đặt trạm giao dịch trên sông Ba để thông thương với khu vực rừng núi rộng lớn ở phía tây Phú Yên. Theo Đại Nam nhất thống chí “ở xã Thạch Thành ở phía tây huyện Tuy Hòa có trường giao dịch và thủ sở ở đây, nước từ sông Ba chảy qua phía nam huyện lỵ đổ ra trấn Đà Diễn”. Thạch Thành là vùng bán sơn địa tiếp giáp giữa đồng bằng Tuy Hòa và vùng núi phía tây. Đây là cửa ngõ thông thương với Thủy Xá, Hỏa Xá, cũng là nơi trao đổi buôn bán các sản phẩm nổi tiếng một thời của núi rừng như trầm hương, ngà voi, sừng tê cũng như những lâm sản quý khác xuống miền xuôi, đồng thời các loại hàng hóa của miền biển, đồng bằng cũng từ đây đi lên miền núi.

Từ nguồn tài liệu tiền cổ tìm thấy ở khu vực Đông Ph ước (xã Hòa An huyện Phú Hòa) trong nhiều năm, khối lượng đến hơn 700 kg. Về loại tiền gồm hơn 80 hiệu tiền đồng trong đó có 60 hiệu là tiền các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Còn lại có tiền Triều Tiên, tiền Nhật Bản và các hiệu tiền Việt Nam từ nhà Lê, Tây Sơn, chúa Nguyễn và triều Nguyễn, có cả tiền Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên vào thế kỷ XVIII… Các nhà khảo cổ đã khảo sát khu vực này và nhận thấy vị trí của Đông Phước rất thuận lợi về đường thủy, là điểm hợp lưu giữa sông Chùa, Rạch Bàu Dài và một nhánh của sông Đà Rằng. Từ đó đã có nhận định có nhiều khả năng Đông Phước là một hải cảng lớn thời Chămpa. Trên sông Đà Rằng thì cảng thị Đông Phước là cửa ngõ thông ra biển và Thành Hồ – cửa ngõ lên châu Thượng Nguyên của vương quốc Chămpa(8). Thôn Đông Phước còn nằm trong phạm vi phân bố của các di tích Chămpa nổi tiếng như Tháp Nhạn, Thành Hồ.

Thành Hồ có thể được xem là Kinh thành của tiểu quốc vùng Phú Yên.

Theo L ương Ninh trong Lịch sử vương quốc Chămpa: Từ sau năm 1471, việc xây dựng đền tháp hầu như bị ngừng hẳn để dồn sức cho việc xây dựng một thành lũy chưa từng có. Thành này ở phía tây thị xã Tuy Hòa, cách khoảng 15km, nằm trên bờ bắc sông Đà Rằng. Thành xây gạch cao khoảng 3 m, phía ngoài có hào nước, bên trong có giếng nước. Thành có hình vuông, bốn cạnh không đều nhau, mỗi cạnh dài khoảng 800 m. Trước thế kỷ XV ta chỉ thấy nói đến thành ở phía bắc Vijaya (Quy Nhơn), là thành mà Đại Nam nhất thống chí đã mô tả, gọi là thành An Nghiệp, phía Bắc sông Đà Diễn (còn gọi là sông Đà Lãng), “tương truyền do người Chiêm xây, tục gọi là thành Hồ”. Chắc không chỉ có việc xây thành, mà sau khi đã đứng yên lại được rồi, các vua Chiêm Thành không những muốn củng cố vương quốc mà có thể còn muốn giành lại nước Hoa Anh nhân lúc Đại Việt bị khủng hoảng chính trị vào đầu thế kỷ thứ XVI, tuy lực lượng của họ bấy giờ đã rất suy yếu(9).

Những phát hiện mới đã cho biết Thành Hồ có hai giai đoạn với 2 chức năng khác nhau:
– Giai đoạn sớm trước thế kỷ XI: Thành Hồ với chức năng là trung tâm quân sự, kinh tế và văn hóa của một tiểu vùng/ tiểu quốc của vương quốc Chămpa (Môn Độc quốc).

– Giai đoạn muộn, thế kỷ XV – XVI: Thành Hồ có chức năng là “kinh đô” của một tiểu quốc ở đây là nước Hoa Anh.

Sang thế kỷ XVII do những biến động lịch sử nên Thành Hồ mất dần vai trò của nó khi vùng đất này sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt (xứ Đàng Trong của chính quyền Chúa Nguyễn).

(8) Nguyễn Danh Hạnh (2003), Lịch sử Phú Yên qua nguồn tư liệu tiền cổ, Tạp chí Xưa và Nay, số 140.
(9) Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Chămpa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.185.

Nh ư vậy có thể hình dung nước Hoa Anh thế kỷ XV – XVI tương tự một tiểu quốc Chămpa trước đây, với thành phần dân cư chính là người Chăm sinh sống ở đồng bằng và miền ven biển, phía tây giáp Nam Bàn còn có một số tộc người thiểu số khác. Cuộc sống tương đối yên ổn, tiếp tục lối sống từ trước đó cả về phương thức kinh tế và sinh hoạt xã hội. Hoa Anh là “vùng đệm” giữa Đại Việt và Chiêm Thành, sau năm 1471 phần lớn người Chăm vào sống tại Chiêm Thành (Phan Rang) hoặc chạy lên miền núi. Cũng do tính chất “vùng đệm” nên chắc rằng tại đây thỉnh thoảng vẫn xảy ra xung đột tranh chấp, đây cũng là nguyên nhân làm cho vùng đất Phú Yên tuy khá rộng rãi màu mỡ nhưng lúc này dân cư không đông.

Sau khi nhận quyền trấn thủ Quảng Nam (1570), năm 1578 Đoan Quận công Nguyễn Hoàng đã cử Lương Văn Chánh làm Tri huyện Tuy Viễn, một trong hai huyện của Bình Định giáp với nước Hoa Anh, và giao nhiệm vụ chiêu tập lưu dân đến Cù Mông, Bà Đài, khẩn hoang ở Đà Diễn. Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, Lương Văn Chánh người huyện Tuy Hòa tỉnh Phú Yên. Tiên tổ là người Bắc Hà, lúc trước làm quan với nhà Lê đến chức Đô chỉ huy sứ. Đầu năm Mậu Ngọ (1558) ông theo Nguyễn Hoàng vào Nam. Khoảng năm Mậu Dần (1578), người Chiêm Thành đến lấn cướp. Ông mang quân đến Đà Diễn, đánh chiếm lấy Thành Hồ. Sau đó chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Bà Đài, cho dân di cư đến đây. Lại mộ dân khẩn hoang trên triền núi sông Đà Diễn, chia lập thôn ấp, ngày dần đông đúc. Như vậy có thể hiểu, vào năm 1578 Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh vào huyện Tuy Viễn với nhiệm vụ chủ yếu là giữ yên ranh giới phía nam với Hoa Anh – thực chất là với Chiêm Thành vì Hoa Anh là vùng ngăn cắt giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Nhưng do “người Chiêm đến lấn cướp” (Hoa Anh) nên Lương Văn Chánh đã “đánh chiếm Thành Hồ” – “thủ phủ” của Hoa Anh nhằm ngăn chặn ý định của Chiêm Thành chiếm lại đất cũ. Cùng với biện pháp quân sự, ông thực hiện biện pháp kinh tế là chiêu mộ dân vào khai khẩn nơi đất hoang vì dân cư ở đây thưa thớt, có lẽ do trước đó phần lớn người Chăm đã vào sinh sống tại nước Chiêm Thành của Bô Trì Trì hay lùi lên vùng núi cư trú cùng các tộc người khác trong nước Nam Bàn. Biện pháp kinh tế này đã tạo sự ổn định cho Hoa Anh, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để người Việt từ vùng Thuận Quảng vào vùng này ngày càng đông đúc. Trên cơ sở đó vào năm 1597 Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng đã có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên đem dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên. Công văn này thực chất như sự công nhận thực tế “lưu dân đi trước nhà nước theo sau” – một quy luật trong quá trình Nam tiến của người Việt. Nghĩa là từ sau năm 1578 tại nước Hoa Anh đã có khá nhiều người Việt sinh sống, hòa đồng với người Chăm và một số tộc người khác. Đến thời điểm 1597 chính quyền chúa Nguyễn – do những nhu cầu về chính trị, đồng thời cũng nhận thấy thời cơ đã thuận lợi – nên đã công khai ra lệnh “đem dân khai khẩn” vùng đất Phú Yên.

Nội dung công văn năm 1597 của Nguyễn Hoàng như sau(10). Nguyên văn:
(10) Trần Viết Ngạc (2004), Về một công văn của Nguyễn Hoàng năm 1517, Tạp chí Xưa và Nay, số 140
Thị Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh năng tòng quân nhật cửu hữu công, quyền Tuy Viễn huyện, An Biên trấn, văn:

Liệu suất Bà Thê xã trục hạng nhân số tính khách hộ các ph ương tòng hành ứng vụ. Nhưng suất thủ khách hộ nhân dân tự Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Đà Niễu đẳng xứ, thượng chí nguồn di, hạ chí hải khẩu, kết lập gia cư địa phận, khai canh hoang nhàn điền thổ để thu nạp thuế như lệ.

Nh ược sự chủ nhiễu dân, khám đắc xử tội.
Tư thị.
Quang Hưng, nhị thập niên,
Nhị nguyệt sơ, lục nhật
Tổng trấn tướng quân
Chi ấn.

Bản dịch:

Dạy Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đã giữ việc quân lâu ngày có công trạng, quyền coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên rằng:

Hãy liệu đem số dân xã Bà Thê đã trục vào hạng dân và các thôn ph ường khách hộ theo hầu công việc, lấy riêng số dân khách hộ các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Đà Niễu, trên từ nguồn mọi dưới đến cửa biển, kết lập gia cư địa phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho tới khi thành thục sẽ nạp thuế như lệ thường. Nhược bằng vì việc mà nhiễu dân, điều tra ra sẽ bị xử tội.

Nay dạy.
Năm Quang Hưng thứ hai mươi,
Tháng hai, ngày mùng sáu.
ấn
Tổng Trấn Tướng Quân.

Văn bản trên đã cung cấp những thông tin quan trọng.
Thứ nhất, vào khoảng thời gian trước sau 1597 Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn

Hoàng còn đang ở phía Bắc ứng phó với nhà Mạc, giúp vua Lê trong việc bang giao với nhà Minh. Năm Quý Tỵ Quang Hưng thứ 16 (1593), năm này họ Mạc mất… tháng 5 Thái phó Đoan quận công Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa đích thân đem tướng sĩ, voi ngựa, thuyền ghe về Kinh lạy chào, đem sổ sách về binh lương, tiến, lụa, vàng bạc, châu báu, kho tàng của hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam dâng nộp. Năm 1596 vua Lê sai ông và nhiều quan lại khác đến cửa Trấn Nam Giao để sứ nhà Minh “xem có thực là con cháu nhà Lê hay không… nhưng nhà Minh dây dưa thoái thác, đòi lấy người vàng ấn vàng theo lệ cũ, không chịu đến khám thành ra quá kỳ hạn”. Năm 1597, tháng 4 ông lại theo nhà vua lên cửa Trấn Nam Giao “cùng với quan nhà Minh… cử hành hội khám. Trong lễ giao tiếp, hai bên vui vẻ mừng nhau. Từ đấy hai nước Nam Bắc lại trao đổi với nhau”. Thời gian này Nguyễn Hoàng “nhiều lần được sai đi chinh phạt, cha con cùng gắng sức, hoàn toàn không có ý gì khác”. Năm 1599 tháng 4, Trịnh Tùng được vua Lê Kính Tông tấn phong Đô Nguyên súy, Tổng Quốc Chính, Thượng phụ Bình an vương, mở phủ, đặt quan lại riêng, họ Trịnh bắt đầu tập tước vương. Năm 1600 tưỡng thủy quân là Kế quận công Phan Ngạn làm phản. Sai Thái úy Nguyễn Hoàng đem quân đi đánh, ông lập mưu trốn về Thuận Hóa, để con trai và cháu nội lại làm con tin(11). Chắc hẳn trong thời gian ở Kinh đô Nguyễn Hoàng đã nhận biết trước tình thế chính quyền “vua Lê – chúa Trịnh” nên càng nung nấu ý định thiết lập giang sơn riêng ở Đàng Trong. Vì vậy ông đã không lơi lỏng điều hành công việc ở Thuận Quảng, đặc biệt quan tâm đến việc phát triển vùng trấn nhậm về phía nam. Công văn này chính là một trong những hành động cụ thể thể hiện ý định đó.

Thứ hai, văn bản trên là một chứng cớ vô cùng xác thực và quý hiếm cho biết một thời điểm quan trọng trong quá trình khai phá phần lãnh thổ phía Nam của xứ Đàng Trong. Đó là từ cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông (1471) đến khi người Việt chính thức lập làng mạc trên vùng đất Phú Yên theo chủ trương của chính quyền (Đàng Trong) là 126 năm, một thời gian khá dài đủ để cho những lưu dân người Việt trước đó và người Chăm tiếp xúc, giao lưu và hợp sinh sống làm ăn. Ngoài ra, cũng cần chú ý rằng, vào năm 1494 vua Chiêm Thành là Bô Trì Trì mất. Đây là người được vua Lê Thánh Tông phong cho làm vua đất Chiêm Thành (vùng Phan Rang) vào năm 1471. Vào giữa thế kỷ XVI vua Chiêm Thành là Po At (theo niên giám từ 1553 – 1579) cũng mất vào khoảng 1578(12). Chúa Nguyễn đã lợi dụng cơ hội này lấn vào “vùng đệm” Hoa Anh mà không lo sợ sự phản ứng từ Chiêm Thành. Vì vậy khi lệnh này được thực thi thì trên vùng đất Hoa Anh hầu như không có phản ứng nào đáng kể.

Thứ ba, tuy là lệnh di dân vào vùng đất mới nh ưng Nguyễn Hoàng đã đưa ra lệnh răn đe trừng trị quan lại nếu lợi dụng “chủ trương” này mà nhũng nhiễu dân chúng. Ta nên hiểu lệnh này không chỉ ngăn ngừa việc “nhũng nhiễu” di dân người Việt mà còn, hay chủ yếu, là đối với người Chăm – cư dân bản địa. Biện pháp này nhằm yên dân, tạo ảnh hưởng tốt cho chính quyền Đàng Trong, chuẩn bị cho những bước đi tiếp theo về phía nam của chúa Nguyễn.

Thứ t ư, từ tư liệu lịch sử này vai trò của Lương Văn Chánh được khẳng định là người có công lớn trong việc khai phá vùng đất Phú Yên.
Sau khi từ Thăng Long về Đoan Quận công Nguyễn Hoàng dời vào dinh Cát Trấn Quảng Nam, là nơi đất tốt, dân đông, sản vật giàu có, số thuế thu vào nhiều hơn đất Thuận Hóa mà quân số thì cũng bằng quá nửa. Năm 1602, Nguyễn Hoàng sai con là Nguyễn Phúc Nguyên vào làm Trấn thủ Quảng Nam. Năm 1604 cải đặt và đổi tên các khu vực hành chính hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
Về thời điểm năm 1611 các bộ sử sách triều Nguyễn đều có ghi chép. Theo Đại Nam thực lục tiền biên: “Tân Hợi năm thứ 54 (1611) bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành sang xâm lấn biên giới. Chúa sai Chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được đất ấy, bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”. Còn theo Đại Nam nhất thống chí thì: “Bản triều Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế bắt đầu mở mang đất này, đặt Phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, lập dinh Trấn Biên, sau gọi là dinh Phú Yên”.

(11) Đại Việt sử ký toàn thư (2003), tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(12) Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Chămpa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.186.

Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang: “Bấy giờ xứ Quảng Nam vào đến phủ Hoài Nhân và biên giới cực Nam là huyện Tây Viễn (nay là Tuy Phước), bên kia Tuy Viễn là đất của Chiêm Thành. Năm Hoằng Định thứ 12 (1611) thì sang xâm lấn biên giới. Chúa (Thái Tổ Nguyễn Hoàng) sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh, lấy đất Phú Yên ngày nay, đặt làm một phủ, chia làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa và sai Văn Phong làm Lưu thủ phủ Phú Yên”1. Công trình Lịch sử vương quốc Chămpa nói về sự kiện này rõ hơn: “Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, Chiêm Thành lại lấn đất Hoa Anh, giết và đuổi những nông dân người Việt vào cư trú khai khẩn miền đất này. Năm 1611 Nguyễn Hoàng sai Nguyễn Phong làm tướng, đem quân vào đánh lại, Chiêm Thành bị thua, vua là Po Nit (1603 – 1613) phải bỏ đất Hoa Anh rút quân về phía nam Đèo Cả. Lần này họ Nguyễn lấy hẳn đất Hoa Anh, lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, lập Dinh Phú Yên, đóng quân để phòng giữ… Với việc lập phủ và dinh Phú Yên, chúa Nguyễn muốn xác lập hẳn puyền cai trị của mình trên một miền đất đã có sự góp sức khai khẩn của nông dân Việt trong mấy chục năm, muốn chấm dứt sự tranh chấp trên một vùng đệm để có thể yên tâm đối phó với cuộc chiến tranh chinh phạt của chúa Trịnh, một thử thách quyết liệt không thể tránh khỏi đối với chúa Nguyễn ở Đàng Trong”. Sau thời điểm này không lâu còn có một sự kiện nữa xảy ra trên vùng đất này: Năm Kỷ Tỵ (1629), Lưu thủ Phú Yên là Văn Phong giữ chức đã lâu, thân cận với người Chiêm, bèn dùng quân Chiêm để làm phản, Chúa sai phó tướng Nguyễn Phước Vinh đi đánh, dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành Dinh Trấn Biên. Điều này cho biết vùng đất Phú Yên sau khi thuộc sự cai quản của chúa Nguyễn còn có nhiều người Chăm sinh sống, và chắc rằng xung đột giữa người Chăm và chính quyền chúa Nguyễn thỉnh thoảng vẫn xảy ra.

Nh ư vậy, năm 1611 việc lập Phủ Phú Yên của chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu đánh dấu quá trình Nam tiến ở Đàng Trong của chính quyền Chúa Nguyễn. Thời điểm này cũng được coi là thời điểm “nước Hoa Anh” chính thức chấm dứt sự tồn tại của nó trong khoảng 140 năm kể từ năm 1471.

1 Phan Khoang (2000), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn học , tr.125.

Published by

Leave a comment